Xét nghiệm PLG được biết đến là xét nghiệm định lượng hoạt tính plasminogen. Chỉ định cận lâm sàng này dùng để chẩn đoán tình trạng thiếu hụt plasminogen bẩm sinh hoặc mắc phải gây nên tình trạng huyết khối, thường gặp ở bệnh nhân huyết khối tĩnh mạch, điều trị thuốc tiêu cục đông, DIC,…
1. Sinh lý đông máu
Trong điều kiện bình thường, cầm máu diễn ra như là kết quả của tình trạng cân bằng liên tục giữa quá trình hình thành cục đông và quá trình làm tan cục đông kể trên. Hay nói cách khác chính là quá trình tạo và tan fibrin.
- Tạo fibrin (fibrin formation): Dưới tác động của thrombin, fibrinogen lưu hành trong cơ thể được chuyển thành fibrin monome. Cuối cùng dưới tác động của fibrin stabilizing factor (yếu tố ổn định fibrin) hay yếu tố XIII, fibrin monome trở thành fibrin polymer - cục đông fibrin ổn định.
- Tiêu fibrin (Fibrinolysis): Khi quá trình đông máu kết thúc, cục đông fibrin không còn cần thiết đối với cơ thể nữa, dưới tác động của chất hoạt hoá tổ chức plasminogen (tPA), plasminogen lưu hành được chuyển thành plasmin. Đây là chất có chức năng tiêu huỷ fibrinogen, fibrin được hình thành và làm xuất hiện các sản phẩm thoái giáng của fibrinogen và của fibrin (PDF) bao gồm các mảnh sớm X, Y cùng các mảnh muộn D, E.

Trong điều kiện bình thường, cầm máu diễn ra như là kết quả của tình trạng cân bằng liên tục.
2. Plasminogen là gì?
Plasminogen là một protein một chuỗi polypeptid với 791 acid amin, trọng lượng 92.000 dalton. Chuỗi polypeptide này không bền vững với nhiệt và với pH trung tính, rất khó tinh khiết được vì nó có ái tính cao với fibrinogen.
Trong chuỗi polypeptid của plasminogen, các vị trí có ái tính cao với lysine đóng vai trò rất quan trọng trong việc gắn kết với fibrin α2 – antiplasmin (α2-AP) và với acid epsilon aminocaproic (EACA).
Plasminogen là tiền tố bất hoạt của plasma. Bình thường chúng tồn tại dưới dạng Glu-plasminogen (có amino-acid tận N là acid glutamic) đó là plasminogen nguyên vẹn. Thông thường Nhiệm vụ hoạt hóa plasminogen mô tái tạo tổng hợp được hai loại chất đảm nhiệm:
- Reteplase: là một dạng tPA của con người đã được sửa đổi, có các tác dụng tương tự nhưng khởi phát nhanh hơn và thời gian tác dụng lâu hơn alteplase.
- Tenecteplase: là một phiên bản sửa đổi khác của tPA với thời gian bán hủy dài hơn. Chỉ định của nó là điều trị tái tưới máu trong nhồi máu cơ tim cấp tính.
3. Các bước tiến hành định lượng Plasminogen
Bệnh nhân nên được thông báo trước khi làm định lượng plasminogen. Các bước thực hiện xét nghiệm như sau:
- Lấy 2ml máu tĩnh mạch, trộn đều với chất chống đông Citrat natri 3.2% hoặc 3.8% theo tỉ lệ thể tích chống đông cho 9 thể tích máu.
- Ly tâm 3.000 vòng/ 1 phút trong 10 phút, thu huyết tương nghèo tiểu cầu.
- Bật máy đông máu, nhiệt độ đạt 37°C.
- Chuẩn bị bộ kit định lượng hoạt tính plasminogen theo chỉ dẫn của nhà sản xuất.
- Tiến hành kỹ thuật theo các bước được hướng dẫn cụ thể tùy theo từng loại máy đông máu mà phòng xét nghiệm hiện có.

Plasminogen là một protein một chuỗi polypeptid.
4. Kết quả PLG test
Thông thường, giá trị hoạt tính tham chiếu của Plasminogen là 0.75 - 1.60 U/ml. Trong khi đó, kháng nguyên PLG là 150-250 ng/L. Khoảng tham chiếu này có thể biến thiên ở các chủng tộc, cao hơn ở người nam gốc Phi.
Suy giảm PLG là bệnh lý di truyền lặn NST thường được đề cập nhiều trong các báo cáo khoa học. Có hai kiểu suy giảm PLG di truyền:
- Type I: Tỷ lệ 1/1.6 triệu, thường có liên hệ với bệnh màng giả đặc biệt viêm kết mạc dạng gỗ, khiếm khuyết làm lành vết thương và có thể suy giảm khả năng sinh sản ở nữ.
- Type II: Được nhận định rằng, có sự suy giảm hoạt tính chức năng nhưng hoạt tính miễn dịch bình thường. Tỷ lệ lên đến 3%, không có màng giả nhưng xuất hiện khiếm khuyết làm lành vết thương và có sự suy giảm khả năng sinh sản ở nữ.
5. Điểm hạn chế của xét nghiệm
Về bản chất gen, xét nghiệm PLG có thể không phát hiện ra những vấn đề sau:
- Đảo ngược ngược phức tạp.
- Chuyển đổi gen.
- Chuyển vị cân bằng.
- Các biến thể DNA ty thể.
- Lặp lại các rối loạn giãn nở trừ khi được đề cập cụ thể.

Thiếu hụt plasminogen thường gây nên tình trạng huyết khối.
Xét nghiệm định lượng hoạt tính plasminogen có thể không phát hiện một cách đáng tin cậy những điều sau:
- Biến thể có tỷ lệ alen nhỏ là 14,6% được được phát hiện với xác suất 90 %.
- Sự kéo dài của mononucleotide lặp lại.
- Xóa hoặc sao chép một exon.
- Các biến thể trong vùng giả gen hay phân đoạn trùng lặp.
Thiếu hụt plasminogen thường gây nên tình trạng huyết khối, tiến hành định lượng hoạt tính plasminogen mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Có thể thực hiện xét nghiệm PLG ở bất kỳ bệnh viện nào vì thế hãy đến gặp bác sĩ nếu có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào.
Thông tin trên IVIE - Bác Sĩ Ơi và các trang liên kết không thay thế cho lời khuyên y tế, chẩn đoán hoặc điều trị từ các chuyên gia y tế. Để đảm bảo an toàn và hiệu quả, bạn nên tư vấn với dược sĩ hoặc bác sĩ về bất kỳ sản phẩm nào bạn đang sử dụng hoặc dự định sử dụng. Công ty TNHH 1 thành viên ISOFHCARE không chịu trách nhiệm cho bất kỳ thông tin nào chưa chính xác hoặc việc sử dụng sản phẩm mà không có sự tư vấn của bác sĩ, chỉ dựa trên thông tin từ chúng tôi.